Giá trị và bài học lịch sử triết lý nhập thế phật giáo Việt Nam thời Lý – Trần
Thích Thông Thức
1. Sức mạnh của nhập thế Phật giáo Việt Nam thời Lý – Trần Triết lý Phật giáo Việt Nam thời Lý – Trần mang tính tương quan với xã hội để khẳng định giá trị và vị trí của chính mình với dân tộc Đại Việt. Bởi vì, nhận thức luận của đạo Phật là đề cao con người hiện thực. Đó là sự bình đẳng giữa người với người trong xã hội. Nghĩa là, đạo Phật đặt con người vào vị thế chủ động để tự khẳng định mình, qua đó, góp phần khẳng định vị trí tự chủ của dân tộc. Phật giáo thời Lý – Trần sở dĩ có những thành tựu và vị trí như lịch sử đã thừa nhận chính là do sự đóng góp của nhiều Thiền sư kiệt xuất, giữ những vị trí trọng yếu trong nhiều lãnh vực và những vị vua hiền tài, mộ Phật. Điều đó được minh chứng qua các vị Thiền sư tích cực dấn thân vào cộng đồng. Có thể thấy giá trị và vai trò của tư tưởng triết lý nhập thế Phật giáo qua các lĩnh vực sau. 4.1.1. Về chính trị Trong giai đoạn đầu thời Lý – Trần, dân tộc ta đã ý thức rằng tự chủ là điều kiện tiên quyết cho sự tồn vong của dân tộc. Muốn có được điều đó, ta phải trường kỳ kháng chiến trên mọi mặt… Với vị trí và vai trò của mình, Phật giáo, thông qua hoạt động các vị thiền sư, đã tích cực tranh đấu cho tự chủ của dân tộc. Trong đó, nổi bật là hai Thiền sư Khuông Việt và Vạn Hạnh, Lý Thánh Tông,Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông, Tuệ Trung Thượng Sĩ v.v… tuy xuất thân thuộc dòng Thiền khác nhau, nhưng Khuông Việt gây dựng được phong trào yêu nước trong tầng lớp trí thức; Vạn Hạnh theo khuynh hướng thần bí, giỏi về sấm vĩ, đã tạo ảnh hưởng rất lớn đến mọi tầng lớp nhân dân. Và với hai dòng Thiền nhập thế tích cực là dòng Thảo Đường do Lý Thánh Tông sáng lập ra và dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử do các vị Thiền sư Nhà Trần đã xây dựng một dòng thiền mang tính bản sắc riêng là sức mạnh tinh thần đại đoàn kết gắn liền vận mệnh dân tộc “Và cái ý thức hệ ấy đã trở nên truyền thống dân tộc chi phối thời Lý, thời Trần với tinh thần thân hóa sáng tạo ra thiền phái Thảo Đường và Trúc Lâm An Tử, hai dòng độc đáo, tích cực nhập thế chính trị với các vua Thiền sư” . Phật giáo luôn chú trọng việc xây dựng những phẩm chất ưu tú nơi con người để phụng sự dân tộc. Giá trị triết lý Phật giáo trong giai đoạn này đã hỗ trợ cho chính trị một cách hiệu quả qua sự nhập thế của các vị Thiền sư được thể hiện như sau: Một là, Phật giáo đã góp phần xây dựng nên những người lãnh đạo có tấm lòng vì nước vì dân, thể hiện qua việc “Dĩ đức hóa dân”. Phật giáo trên tinh thần là “vô ngã – vị tha”, không để cái hữu ngã và vị kỷ của cá nhân con người chi phối đến chuẩn mực của xã hội. Chính sách này được các vị vua, từ Lý Thái Tổ, Lý Nhân Tông, Lý Thánh Tông, Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông vận dụng thành công trong việc trị quốc, điều này thể hiện:“giáo quyền hợp lực với quân quyền. Cả hai bên đều có lợi, một bên là chính quyền được vững chãi, một bên là giáo quyền và giáo lý được nâng đỡ, tôn giáo, phát triển ảnh hưởng và thế lực trong quần chúng”. Qua đó, nhìn Phật giáo nhập thế thời Lý – Trần đã thiết định một chuẩn giá trị chung, nó vừa mang động thái phản ứng tính chính trị, vừa thực nghiệm nội lực tu hành đan xen với nhau tạo thành sức mạnh dân tộc. Hai là, Phật giáo góp phần hoàn thiện cơ sở lý luận chính trị, thể hiện qua việc trị nước mà tiêu biểu là lý thuyết chính trị của Thiền sư Pháp Thuận trong bài Vận nước với tiền đề lý luận chính trị là xây dựng tinh thần đoàn kết toàn dân “Vận nước như mây cuốn, trời Nam mở thái bình”. Tuy nhiên, ở một tầm cao hơn, Thiền sư Viên Thông đã hoàn thiện lý luận này khi đưa ra tư tưởng “đức hiếu sinh”, nghĩa là phải xây dựng nhà nước do dân, vì dân. Khi đó, Trần Nhân Tông đưa ra quan điểm lý luận chính trị:“Cư Trần Lạc Đạo”, nghĩa là muốn nhân dân đoàn kết đánh giặc, xây dựng xã hội ổn định thì cơm ăn, áo mặc đầy đủ, đời sống tinh thần nhân dân hòa khí. Điều này Trần Nhân Tông tâm huyết xây dựng“Ở đời vui đạo, hãy tùy duyên. Đói cứ ăn đi mệt ngủ liền. Trong nhà có báu thôi tìm kiếm. Đối cảnh vô tâm, chớ hỏi thiền” đây là quan điểm chính trị quan tâm đời sống tồn tại của nhân dân,“vấn đề ý muốn, tấm lòng của thiên hạ là gì được giải quyết một cách dứt khoát và rõ ràng. Đó là đói ăn, mệt ngủ. Đói ăn, mệt ngủ là một sáo ngữ của thiền mà ta rất dễ gặp. Nhưng với tư cách là một nhà lãnh đạo chính trị thì đây là một nỗi trăn trở triền miên. Từ xưa tới nay, những nhà chính trị lớn của đất nước cũng như thế giới, ai cũng biết làm chính trị là lo cái ăn, cái mặc cho dân và đây là nỗi lo khôn nguôi của họ” . Ba là, Phật giáo góp phần khẳng định ý thức tự chủ của dân tộc. Đây là yếu tố quyết định trong việc xây dựng nền độc lập. Quan niệm từ “đức Phật cho ta” đến “đức Phật tự ta” đã nâng cao nhận thức về sự tự chủ của mỗi cá nhân, qua đó, cũng khẳng định dân tộc tính. Sự khẳng định về ý thức hệ chính trị thông qua thiền tông được thể hiện qua dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử sau này với những ý nghĩa: Một là: Tự mình phân biệt với Thiền tông ở Trung Quốc biểu lộ tính độc lập dân tộc. Hai là: Thay đổi một phần nội dung tiêu cực và thân ngoại quốc của các phái khác của Thiền tông. Ba là:Vượt lên trên sự khác biệt của tất cả các tông phái Phật giáo cũng như các tín ngưỡng phi Phật giáo để ý đồ thống nhất ý thức hệ. Không chịu trách nhiệm về sự khác biệt và đụng độ đã xảy ra trong lịch sử giữa các phái Thiền tông với nhau cũng như giữa các phái Thiền tông với các tín ngưỡng khác, do đó thu hút các tín ngưỡng khác. Bốn là: Tự khoác cho mình chiếc áo một tôn giáo mới tuy rằng thực tế chỉ là một phái, với đầy đủ các yếu tố để lừa mị nhân dân quân chúng. Phái Trúc Lâm đã có những thành tựu rõ rệt . Như vậy, lịch sử Phật giáo Việt Nam thời Đại Việt được thể hiện bản lĩnh lý tưởng nhập thế, không can thiệp quá sâu vào thể chế bằng ý đồ chính trị, mà dấn thân hộ trì phù hợp trong điều kiện với xu thế xã hội nhất định để góp phần xây dựng dân tộc, bằng phương châm “Đạo pháp – Dân tộc”, giữ được phong thái riêng của mình trong một quốc gia, là“đạo Phật có thể nhận sự bảo trợ của chính quyền trong trường hợp nhà chính trị thấy lý tưởng đạo Phật thích hợp với đường lối họ, nhưng đạo Phật không bao giờ muốn nắm lấy quyền bính hoặc có ý thao túng chính quyền” . Nghĩa là sức mạnh vai trò Phật giáo là giữ gìn giềng mối đạo đức của con người; phụng sự dân tộc bằng tinh thần vô ngã – vô trụ; thiết lập giữ vững niềm tin tâm linh trong xã hội và điểm nương tựa tinh thần cho quần chúng. Trong giai đoạn này, Phật giáo cùng với triều đại nhà Lý – Trần, phải thực hiện một nhiệm vụ vô cùng cấp bách là phải xây dựng một ý thức hệ độc lập thống nhất, nhằm 4 mục đích như sau: “một là: thoát khỏi sự lệ thuộc chặt chẽ về ý thức hệ với nước ngoài để thanh toán hoàn toàn mọi cơ sở của nước xâm lược. Hai là: Làm cơ sở tư tưởng để thống nhất ý thức dân tộc trên cơ sở thống nhất dân tộc về mặt chính trị để củng cố sự thống nhất dân tộc một bước nữa. Ba là: Làm công cụ thống nhất quyền lực vào chính quyền Trung ương, tức quy tụ vào họ Lý. Bốn là: Làm phương tiện giải quyết các mâu thuẩn nội bộ dân tộc chủ yếu là giữa giai cấp thống trị và đông đảo nhân dân quần chúng nhằm duy trì một trật tự xã hội. ”. Chính vì, yếu tố tín ngưỡng tôn giáo là động lực thúc đẩy đưa nhân dân gắn bó với nhau trong việc xây dựng một khối Tập đại thành ý thức hệ dân tộc bền vững:“Lịch sử đã chứng tỏ rằng tôn giáo là nền tảng, là yếu tố quan trọng của đoàn kết xã hội.Tín ngưỡng tính cũng là xã hội tính của con người” . Tóm lại, vai trò chính trị của Phật giáo trong giai đoạn nhà Lý – Trần là xây dựng ý thức hệ dân tộc, thể hiện được tính ưu việt đặc thù của dân tộc cũng như của Phật giáo. Phật giáo thời Lý – Trần thịnh vượng vì không những phù hợp với tâm hồn, cách nghĩ của mọi tầng lớp, mà còn do các nhà tu luôn tâm niệm họ là những người sinh ra và lớn lên từ đất Việt nên phải góp phần xây dựng quê hương theo phương châm “Phật pháp tức thế gian pháp”. Các Thiền sư nói riêng và Phật giáo Việt Nam nói chung luôn đem tinh thần đạo phụng sự cho đời, phụng sự dân tộc. Như vậy, Phật giáo luôn gắn liền với dân tộc theo phương châm “đạo pháp – dân tộc”. Sự đóng góp của Phât giáo đem những thành tựu về chính trị cho đất nước trong giai đoạn nhà Lý – Trần cũng chính là giá trị và vai trò của sức mạnh Phật giáo đối với dân tộc. 4.1.2. Về mặt đạo đức Từ khi du nhập vào Việt Nam, Phật giáo với tinh thần bình đẳng và từ bi đã góp phần thiết lập khối đại đoàn kết dân tộc, xây dựng tình yêu thương khắng khít trong nhân dân, chủ yếu trong việc hướng dẫn con người sống sao cho tốt, đem đến lợi ích cho bản thân cũng như cho cộng đồng. Từ vua, quan cho đến mọi tầng lớp xã hội, trên dưới đồng lòng xây dựng đất nước ổn định và phát triển. Tinh thần này được thắt chặt hơn thông qua các lễ hội, mà chủ yếu là các lễ hội Phật giáo, với sự tham gia của mọi tầng lớp nhân dân. Ngôi chùa trong giai đoạn này ngoài chức năng tôn giáo và tín ngưỡng còn kiêm chức năng giáo dục, việc giáo dục đạo đức luôn được chú trọng,“có những tôn giáo có bản chất thích hợp với sự phát triển của tinh thần tự do, dân chủ và khuyến khích mọi tiến bộ của nhân loại về phương diện sinh hoạt xã hội cũng như về phương diện tâm linh, tình cảm” . Đạo đức Phật giáo được thể hiện qua mười điều thiện và quan niệm nhân quả, luân hồi v.v… Trong đó, triết lý bình đẳng, đoàn kết và dấn thân với cộng đồng, dù người có theo tín ngưỡng hay không họ đều biết giá trị về nó. Một triết lý đã in sâu vào dòng tâm thức cộng đồng và trở thành đạo lý nhân bản của dân tộc Việt Nam, như đã đề cập ở phần trên . Đạo đức Phật giáo mang tính từ bi và trí tuệ, phù hợp với tinh thần tương thân tương ái của dân tộc. Người Việt còn chịu ảnh hưởng khác của đạo Phật là đạo lý Tứ ân gồm: ân cha mẹ, ân sư trưởng, ân quốc gia và ân chúng sanh. Trong đó, ân cha mẹ rất sâu nặng trong đạo lý của người Việt thể hiện qua đạo Hiếu. Phật giáo rất chú trọng đến hiếu hạnh, theo lời Phật dạy: “Tâm hiếu tức tâm Phật, hạnh hiếu tức hạnh Phật, đạo hiếu tức đạo Phật”. Ta có thể tìm thấy chữ Hiếu qua hệ thống kinh điển như: kinh Báo phụ mẫu ân, kinh Hiếu tử, kinh Vu lan, kinh Đại phương tiện Phật báo ân v.v… Trong các kinh này, đặc biệt nhấn mạnh ý nghĩa thiêng liêng của lòng hiếu kính mà hình ảnh của cha mẹ được đức Phật đặt ngang với vị trí cao nhất trong Phật giáo – đó là Phật – qua sự so sánh:“Phụ mẫu tại tiền như Phật tại thế”., hay “ Thiên kinh vạn quyển, hiếu nghĩa vi tiên” nghĩa là (ngàn quyển kinh, vạn quyển sách đều lấy sự hiếu nghĩa làm đầu). Hơn nữa, Hiếu còn được trang trọng gọi là Đạo. Đối tượng mà Tứ ân hướng đến gồm ông bà, cha mẹ, những người xung quanh và rộng hơn nữa là đất nước. Đó là môi trường để thể hiện tinh thần thương yêu, là nền tảng của mọi tình cảm khác trong xã hội, với những giá trị đạo lý truyền thống của người Việt Nam. 4.1.3. Về giáo dục – văn hóa Phật giáo đóng một vai trò khá quan trọng trong nền giáo dục thời Lý – Trần, và góp phần đào tạo ra những nhà lãnh đạo tài đức song toàn. Điều này chứng tỏ nền giáo dục Việt Nam và Phật giáo Việt Nam giai đoạn thời Lý – Trần đã thể hiện chức năng đào tạo hiệu quả, sản sinh ra những nhà trí thức có khả năng gánh vác không chỉ việc đạo mà còn việc nước, việc dân như: Vạn Hạnh, Lý Thái Tổ, Viên Chiếu, Lý Nhân Tông, Lý Thánh Tông, Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông … Trên bình diện xã hội, đạo Phật còn giáo dục con người trước sau như một, trung thành với dân với nước, đoàn kết xây dựng đất nước. Ngoài ra, nhân dân đoàn kết, bình đẳng, cuộc sống hạnh phúc là do đường lối giáo dục chính trị phù hợp theo nguyện vọng nhu cầu quần chúng:“Bởi vì chính trị nào cũng phải có quần chúng mà tư trào văn hóa nào lôi kéo được quần chúng thì có thể bảo đảm cho sự đứng vững của một thế chính trị” . Tính đến thời Lý – Trần, nền văn hóa nước ta đã có bề dày hơn 3000 năm, trong đó, sự xuất hiện của Phật giáo là khoảng 1000 năm. Nền văn hóa thời Lý – Trần tuy vẫn chịu ảnh hưởng của ngàn năm Bắc thuộc nhưng cũng đã dần khẳng định tính tự tôn của Đại Việt mà sự đóng góp của Phật giáo là rất rõ nét, thể hiện qua những giá trị vật thể và phi vật thể. Chính điều đó đã làm phong phú thêm cho nền văn hóa quốc gia, theo Nguyễn Lang: “Sự thu dụng những điều hay của nền văn hóa khác vốn là một hành động làm giàu cho nền văn hóa dân tộc. Tuy nhiên việc làm đó phải được thực hiện trên căn bản vốn cũ của văn hóa dân tộc. Tinh thần cởi mở, hoà hợp và từ bi của Phật giáo đã duy trì hoà bình và thịnh vượng suốt trên ba trăm năm. Những tệ đoan sinh ra trong Phật giáo cố nhiên là phải từ bỏ, nhưng tinh thần cởi mở, hoà hợp và từ bi ấy cần phải bảo vệ” . Vì văn hóa là linh hồn giữ chức năng điều tiết mọi hoạt động của con người thì Phật giáo đã có nhiều đóng góp vào nền văn hóa dân tộc. Văn hóa là tính qui định của sự phát triển, là nhân tố cơ bản mà bộ máy cầm quyền cần phải dựa vào để thiết lập một mô thức phát triển phù hợp với sự tiến hóa của nhân loại. Phật giáo thời Lý – Trần, để lại những công trình văn hóa tín ngưỡng có giá trị cho dân tộc, điển hình là bốn công trình lớn gọi là “An Nam tứ đại khí”, (bốn nguyên khí trấn giữ nền độc lập của nước Nam). Một là: Tháp Báo Thiên, “bảo tháp Đại Thắng Tự Thiên cao vài chục trượng” được xây dựng vào năm 1057 ở chùa Sùng Khánh. Tháp này cao mười hai tầng, mỗi viên gạch đều khắc niên hiệu Long Thụy Thái Bình. Nhưng đến thời Hồ ngọn tháp đã đổ. Đến năm 1427 Lê Lợi làm cái đồn canh gác trên tháp để quan sát giặc. Đến thời “quân xâm lược Pháp chiếm đóng Hà Nội đã bị cha cố đạo Puginier làm đơn cưỡng chiếm, lấy đất làm ngôi nhà thờ lớn Hà Nội tồn tại cho đến nay. Dù thế, chùa tháp Bảo Thiên từng một thời là một biểu tượng của sức mạnh Đại Việt” . Hai là: Tượng Quỳnh Lâm đúc bằng đồng ở chùa Quỳnh Lâm. Ba là: Chùa Phổ Minh ở Nam Định. Bốn là: Chuông Quy Điền (nghĩa là chuông không kêu, nên đặt xuống ruộng), đúc năm 1080 ở chùa Diên Hựu (chùa Một Cột) . Ngoài bốn công trình trên nhà Lý còn để lại những di tích, hiện nay vẫn còn như: Quán Trấn Vũ (1102) , đền Hai Bà (1160) , chùa Hương Tích… và nhiều cung điện ở Thăng Long. Những nơi này là địa điểm sinh hoạt văn hóa giáo dục của mọi tầng lớp nhân dân. Thời Lý – Trần thiết lập một nền độc lập làm: “Nền tảng cho nước Đại Việt thống nhất với những chiến công lừng lẫy. Đã có độc lập về chính trị, kinh tế, quân sự, tất phải tiến đến một độc lập về ý thức hệ. Lý Thánh Tông đã nhận thấy điều đó. Nhà vua muốn xây dựng một ý thức hệ mới với phái Thảo Đường mà chùa Một Cột là tiêu biểu vật chất còn lại” , nhân tố chính là Phật giáo. Ngoài giá trị về mặt kiến trúc, những công trình này còn mang những giá trị triết lý sâu sắc mà bình dị, thể hiện được dân tộc tính của Phật giáo. Vì,“văn hóa là cố thể hiện một ý thức hệ trong sự sống của con người,bằng những phương tiện sẵn có trong phạm vi văn hóa. Và chừng đó cũng đã là đáng kể lắm rồi. Khi văn hóa đã trở thành sự soi sáng cho ước vọng và ý chí của quần chúng thì tự khắc bằng cách này hay cách khác nó được thực hiện. Chất liệu văn hóa của một lực lượng xã hội bao giờ cũng có ảnh hưởng trên sinh hoạt mọi mặt của xã hội ấy”. Bản sắc văn hóa là nguồn gốc, là sức mạnh tinh thần vô hình tác động rất mạnh cho mọi sự phát triển. Đó cũng là nét đặc thù riêng của dân tộc Việt Nam. Văn hóa Phật giáo là một bộ phận quan trọng của văn hóa dân tộc, nếu không nói là một trong những yếu tố cấu thành. Vì vậy, củng cố và phát huy vai trò của Phật giáo có một ý nghĩa lớn đối với cuộc vận động “toàn dân xây dựng đời sống văn hóa” hiện nay. Vì rằng, đối với tất cả người dân Việt Nam – dù có theo Phật giáo hay không – đều ít nhiều hiểu tư tưởng cũng như triết lý nhà Phật bởi vì đó là một phần truyền thống của cha ông. Sẽ là bất khả nếu muốn nghiên cứu văn hóa Việt Nam mà không nói đến Phật giáo và ngược lại. Tuy rằng Đảng và Nhà nước luôn quan tâm đến sự phát triển về văn hóa truyền thống và có nhiều chính sách nhằm bảo vệ và phát huy những giá trị đó nhưng vẫn chưa đồng bộ ở các ban ngành cũng như các địa phương. Một mặt, do nhận thức hạn chế, một số nơi người ta không nhận thức được giá trị thực của chúng. Mặt khác, do tác động mạnh mẽ và nhiều mặt của các nền văn hóa ngoại lai, cụ thể là từ phương Tây, qua các kênh thông tin và quá trình toàn cầu hóa, rất nhiều thanh thiếu niên của chúng ta chỉ biết tiếp thu, bắt chước, mà không chọn lọc và nhìn nhận xem những điều đó có phù hợp với tính cách và tinh thần Việt hay không. Do đó, đời sống văn hóa cộng đồng tuy được nâng lên một bước tiến mới, nhưng vẫn còn bất cập với nhiều mặt hạn chế, mà điển hình là ngày càng nhiều tệ nạn xã hội, đặc biệt là trong giới trẻ. Ở một góc độ khác, mặt trái của tiến trình đô thị hóa đang tạo ra một xu hướng “sùng ngoại, bài cổ”. Hệ quả này không những làm kìm hãm tiến trình bảo tồn, phục hưng những giá trị bản sắc văn hóa dân tộc ngay trong chính cái nôi của nền văn minh nông nghiệp mà còn tác động đến một bộ phận dân cư, nhất là lớp trẻ, tạo nên khuynh hướng nhìn văn hóa truyền thống như cái gì quá lạc hậu, lỗi thời, không phù hợp với đời sống “hiện đại”. Cần phải hiểu rằng trước thời Lý – Trần, ông cha ta đã nhận thức được tầm quan trọng của một nền văn hóa độc lập tự chủ, vì văn hóa là linh hồn của dân tộc. Tầm quan trọng của văn hóa cũng được Đảng và nhà nước ta nhìn nhận: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội” và đề ra chủ trương “xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Đây là một chủ trương kịp thời và đúng đắn nhưng thực chất những gì chúng ta đã và đang làm chưa đáp ứng được sứ mạng mà lịch sử đặt ra. Phải chăng chúng ta chỉ đang “trị bệnh” ở “triệu chứng” chứ chưa thực sự “trị” được phần “căn nguyên”? Theo chúng tôi, chúng ta cần quan tâm nhiều hơn đến sự giáo dục đạo đức và truyền thống dân tộc từ trong mỗi gia đình và học đường. Bên cạnh đó, Phật giáo góp phần thực hiện rất tốt nhiệm vụ này. Sẽ là quá muộn nếu chúng ta không có những nhận thức đúng đắn và đầy đủ về mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại, giữa quá khứ và hiện tại, cũng như không nắm vững quy luật phát triển văn hóa – xã hội ở từng thời kỳ. Vì vậy, phát huy bản sắc dân tộc phải là nhiệm vụ của mỗi cá nhân, gia đình và của toàn xã hội. Trong nỗ lực bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, vào năm 2010, nước ta đã tổ chức lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội. Đó là hoạt động hướng về cội nguồn thiêng liêng của dân tộc. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở mức độ một lễ hội hoành tráng về hình thức thì không thể gọi là thành công. Điều quan trọng là thông qua hoạt động đó, chúng ta rút ra những bài học gì trong việc bảo tồn và phát huy nền văn hóa Việt Nam cũng như việc xây dựng và phát triển đất nước trong thời đại mới. Ý nghĩa của việc tổ chức lễ kỷ niệm chính là để “ôn cố tri tân”, nhìn vào tấm gương của người xưa để soi lại chính mình, để nhắc nhỡ mình phải làm gì cho xứng đáng là người kế thừa của truyền thống hào hùng đó. Đây cũng là di chúc thiêng liêng của bao thế hệ tiền nhân: hãy đến hiện đại từ truyền thống; hãy trân trọng giữ gìn và triển khai một cách sáng tạo những truyền thống và di sản của tổ tiên. Đó vừa là sức bật thần kỳ để theo kịp sự phát triển của nhân loại, vừa như là tâm điểm để trở về, để hiến dâng, phụng sự cho tự do và hoà bình của dân tộc Việt Nam. Tóm lại, nền văn hóa – giáo dục của Phật giáo thời Lý đóng một vai trò to lớn và giữ một vị trí trọng yếu trong sự nghiệp chung của dân tộc vào giai đoạn này với những thành tựu và đóng góp thiết thực để tô điểm cho nền văn minh Đại Việt. Nền văn hóa – giáo dục đó đã góp phần đào tạo nên những người lãnh đạo đất nước hiền tài để dân tộc bước sang một trang sử hào hùng và cũng là niềm tự hào của dân tộc ta cho đến tận ngày nay. 4.2. Phật giáo Việt Nam hiện nay tiếp tục phát huy các bài học lịch sử của nhập thế. Nghiên cứu triết lý nhập thế Phật giáo thời Lý –Trần chúng ta có thể rút ra những bài học lịch sử như sau: Một là, thống nhất nhận thức về hệ tư tưởng để xây dựng dân tộc độc lập tự chủ. Độc lập và tự chủ là giá trị cơ bản, là khát vọng muôn đời, là điều kiện tiên quyết cho sự tồn vong của một dân tộc. Bởi vì, tinh thần dân tộc là sự kết tinh của một chuỗi các giá trị truyền thống, trong đó tinh thần yêu nước và ý thức tự chủ là hai yếu tố chủ đạo. Hai yếu tố này có quan hệ hữu cơ, tác động lẫn nhau trong việc xây dựng nền độc lập dân tộc. Tinh thần yêu nước là cơ sở để xây dựng tinh thần dân tộc, trong khi đó, ý thức tự chủ dân tộc củng cố và phát triển tinh thần yêu nước. Trên tinh thần đó, Phật giáo thời Lý – Trần, thông qua các vị Thiền sư như: Định Không, Vạn Hạnh, Khuông Việt, Đa Bảo, Viên Thông, Huệ Sinh, Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông v.v… trực tiếp tham gia chính sự và đã có những đóng góp to lớn cho dân tộc cũng như phát triển Phật giáo, “giữ vững chủ quyền quốc gia và làm cho Phật giáo hưng thịnh” . Tuy sử sách không bàn nhiều về những hoạt động chính trị của tín đồ Phật giáo, nhưng không thể phủ nhận là họ không phụng sự mà là họ đã hết mình vì tự do – hạnh phúc con người, vì độc lập dân tộc, vì chủ quyền quốc gia, mà không đứng trên quan điểm phiến diện, giáo điều và cực đoan của bất cứ thế lực nào. Bởi vì, trong mối tương quan giữa nhận thức của các vị thiền sư và các vị vua, mục đích là độc lập dân tộc và xây dựng đất nước phát triển. Trong đó, dân tộc độc lập dựa trên nền hòa bình ổn định, gắn liền với tự do tín ngưỡng để đáp ứng nhu cầu sinh hoạt đời sống tinh thần quần chúng nhân dân. Bên cạnh đó, sự độc lập tự chủ về văn hóa, bởi vì văn hóa là cơ sở nội tại của sự phát triển vững chắc của mỗi dân tộc. Một dân tộc bị đồng hóa về văn hóa sẽ không còn là chính mình. Sau khi khẳng định về độc lập và chủ quyền quốc gia, nhiệm vụ tiếp theo là khẳng định sự độc lập về văn hóa, khẳng định sự không lệ thuộc vào văn hóa phương Bắc. Một trong những minh chứng cho mong muốn xây dựng một nền văn hóa độc lập là chùa Một Cột, ngôi chùa này hàm chứa triết lý về sự tự chủ của người Việt. Ngày nay, khi nói đến văn hóa Đại Việt thì chùa Một Cột là biểu tượng độc đáo nhất của dân tộc, song độc lập không có nghĩa là cô lập, tách mình ra khỏi các giá trị văn hóa nhân loại chung. Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, các dân tộc không thể không giao lưu văn hóa bên ngoài. Như vậy, để bảo tồn và phát triển một dân tộc vừa phải biết giữ gìn phát huy bản sắc văn hóa của mình vừa tiếp thu chọn lọc nền văn hóa khác để làm giàu văn hóa dân tộc ta. Đó là vừa bảo vệ và vừa làm phong phú nền văn hóa dân tộc. Tóm lại, dù thế giới có biến động như thế nào, song độc lập dân tộc vẫn là giá trị truyền thống không thể thay đổi; hơn nữa, xu thế toàn cầu hóa sẽ đặt dân tộc đứng trước nhiều cơ hội và cũng không ít thánh thức. Chủ động hội nhập quốc tế nhưng không “hoà tan” hay đánh mất chính mình, đó là biện chứng của sự phát triển đất nước trong thời đại ngày nay. Như vậy, bảo vệ vững chắc dân tộc mình và tôn trọng nền độc lập dân tộc khác là một nguyên tắc cơ bản để các dân tộc giao lưu, trao đổi, hợp tác và hội nhập quốc tế, cùng thúc đẩy thế giới không ngừng ổn định và phát triển, như văn kiện Đại hội viết: Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Tiên tiến là yêu nước và tiến bộ… nhằm mục tiêu tất cả vì con người, vì hạnh phúc và sự phát triển phong phú, tự do, toàn diện của con người bản sắc dân tộc bao gồm giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết ý chí cộng đồng lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động, sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống… Bản sắc văn hóa dân tộc còn đậm nét cả trong các hình thức biểu hiện mang tính dân tộc độc đáo. Bảo vệ bản sắc dân tộc gắn kết với mở rộng giao lưu quốc tế tiếp thu có chọn lọc những cái hay cái tiến bộ trong dân tộc khác. . Hai là, bài học về đường lối chính trị phát huy những giá trị nhân bản trong đời sống hiện thực của nhà Lý – Trần – thông qua Phật giáo – các tầng lớp quý tộc gần gũi với quần chúng nhân dân. Đây là tầm quan trọng của việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân. Thông qua các lễ hội mang tính đại chúng và có sự tham gia của Phật giáo, triều Lý đã thực hiện chủ trương khuyến khích nhân dân làm điều thiện, có lối sống lành mạnh trong quan hệ giữa người với người trong xã hội. Nó được thể hiện cụ thể qua lễ hội đèn Quảng Chiếu, và lễ hội tắm Phật hằng năm vào mùng 8 tháng 4, lễ khánh thành xây dựng chùa có thuyết giảng kinh, hát chèo, nghi lễ thờ cúng v.v… Đây cũng là một trong những dịp để triều đình xây dựng đoàn kết quần chúng. Đặc biệt là lễ hội đèn Quảng Chiếu với mục đích và nhiệm vụ là xây dựng đại đoàn kết, như văn bia viết: “… dốc hòa vui của thiên hạ, đêm trở thành ngày, thỏa lòng mặt của thế gian, già đổi nên trẻ. Ấy là công lao xây dựng thắng duyên của thiên hạ ”. Một trong những đóng góp của Phật giáo trong xây dựng đoàn kết dân tộc, với chủ trương “dĩ đức hóa dân” , các vua triều đại Lý – Trần đều nhận thức được tầm quan trọng cũng như vai trò của dân đối với sự tồn vong, suy thịnh đất nước nên đã thể hiện được tinh thần thương yêu và chăm sóc dân thực sự như:“… đại xá các thuế khóa cho thiên hạ trong 3 năm, những người mồ côi, góa chồng, già yếu, thiếu thuế lâu năm đều tha cho cả” , các vua nhà Lý – Trần thường xuyên thực hiện chủ trương này. Họ ý thức rõ rằng ngai vàng của họ chỉ thực sự vững chắc khi muôn dân có đời sống ấm no, hạnh phúc. Như vậy, chính sách đại đoàn kết tất cả đều hướng đến vì hạnh phúc của muôn dân. Ngày nay, Đảng và nhà nước ta cũng thực hiện đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo vì kế thừa phát huy truyền thống dân tộc là việc tối quan trọng trong quá trình xây dựng đất nước, như Chủ tịch Hồ Chí Minh nói:
“Đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết,
Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết,
Thành công, thành công, đại thành công”.
Với tinh thần đó, Đại hội IX của Đảng khẳng định: Đại đoàn kết dân tộc là động lực chủ yếu của sự phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay, đồng thời Đại hội cũng chỉ ra những phương pháp tăng cường sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Như vậy, tinh thần đại đoàn kết bao gồm mọi thành phần trong xã hội, giữa dân tộc và tôn giáo, tôn giáo với tôn giáo và các dân tộc anh em để tạo thành một thể thống nhất, tạo ra sự ổn định và phát triển, để “dân giàu nước mạnh xã hội công bằng, dân chủ văn minh”, vững bước vào thế kỷ XXI.
Ba là, lấy dân làm gốc thông qua học thuyết “đức hiếu sinh” và ý nghĩa của nó trong giai đoạn hiện nay.
Trong lịch sử dân tộc ta, bài học “lấy dân làm gốc” vừa là nền tảng vừa là sợi chỉ xuyên suốt. Theo quan niệm truyền thống của người Việt Nam, vai trò của quần chúng nhân dân được đề cao, thể hiện trong tư tưởng “ dĩ nông vi bản”, “dĩ dân vi bản”, “dân như nước, chở thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân; thuyền bị lật mới biết sức dân mạnh như nước” v.v.. Quan niệm về dân thông qua tư tưởng đức hiếu sinh của Thiền sư Viên Thông là “Thiên hạ cũng như đồ dùng, để chỗ yên thì được yên, để chỗ nguy thì bị nguy, xin đấng nhân chủ hãy làm sao được như thế. Dùng đức hiếu sinh hợp với lòng dân, cho nên yêu thương dân như cha mẹ, trông ngóng như trời đất. Đó là để thiên hạ vào chỗ yên vậy”, và Trần Nhân Tông là “Cư Trần Lạc Đạo”. Như vậy, trước hết phải thể hiện được tấm lòng vì dân vì nước, bằng hành động cụ thể trên cơ sở lấy dân làm gốc, phải luôn tôn trọng và bảo vệ quyền lợi cuộc sống yên vui, ấm no hạnh phúc cho nhân dân, làm nền tảng và lẽ sống của mình. Điều này được Hồ Chí Minh khẳng định “chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta” . Qua đó, chúng ta thấy kinh nghiệm thực tiễn từ lịch sử của ông cha ta về việc an dân, trị quốc cũng như kinh nghiệm qua các cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm giành độc lập, đều lấy dân làm gốc với vai trò chủ đạo trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, đặc biệt là trong công cuộc đổi mới phát triển đất nước hiện nay, chế độ ta tiếp tục khẳng định lấy dân làm gốc là bài học kinh nghiệm, là cơ sở cho việc phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Như Văn kiện Đại hội lần thứ XI, đánh giá về quá trình đổi mới, và một lần nữa khẳng định: “đổi mới phải dựa vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, phù hợp với thực tiễn, luôn luôn sáng tạo” . Song, vấn đề không phải nêu khẩu hiệu “lấy dân làm gốc”, hay thực hiện một cách nửa vời, hình thức. Điều quan trọng vận dụng tư tưởng đó trở thành cụ thể trong xã hội, nó phải được thể hiện một cách linh hoạt và uyển chuyển trong hành động thực tiễn của mỗi cán bộ. Mỗi cán bộ phải thực sự là “người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”; phải tôn trọng nhân dân, vừa lãnh đạo vừa phát huy làm chủ nhân dân, vừa giáo dục vừa học tập từ nhân dân; phải làm cho dân tin tưởng, dân yêu, dân ủng hộ; phải sống hoà đồng cùng với nhân dân, quan tâm đến đời sống của nhân dân, phải xây dựng cho mình một tác phong, thái độ và hành động đúng vị trí và vai trò của mình, xứng đáng là người mà nhân dân đặt trọn niềm tin cũng như giao phó trọng trách sứ mệnh. Được như vậy thì trên từng bước đi, chúng ta đang thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” như mong muốn của toàn dân ta.
Bốn là,vận dụng giá trị đạo đức Phật giáo tạo ra một cơ sở chung làm chuẫn mực, tiêu chí để xây dựng xã hội.
Đồng hành với dân tộc, Phật giáo Việt Nam đã góp phần xây dựng truyền thống đạo đức văn hóa, với phương châm “từ bi – vô ngã – vị tha” và tinh thần “tương thân – tương ái” của dân tộc, để làm nền tảng chuẩn mực về giá trị đạo đức – nhân văn, đưa con người có một cuộc sống hoàn thiện và xây dựng, bảo vệ phát triển đất nước. Bởi vì, trong thời đại “vật chất hóa” ngày nay, khi sự thành công hay thất bại của một người, một xã hội, một quốc gia thường được đánh giá thông qua những gì mà họ sở hữu thì như một hệ quả tất yếu, truyền thống đạo đức của từng dân tộc vào “sân chơi chung” quốc tế đang bị xâm hại nghiêm trọng. Do đó, để người Việt Nam, xã hội Việt Nam mãi là Việt Nam, chúng ta cần phát huy hơn nữa những giá trị triết lý nhân bản, đạo đức truyền thống thực hiện xây dựng xã hội vừa hiện đại nhưng cũng không đánh mất dân tộc tính. Đó là cách mỗi người chúng ta trau dồi nội lực và tự tin khi hội nhập quốc tế.
Vào thời Lý – Trần, đạo đức Phật giáo đóng một vai trò quan trọng trong sự thịnh vượng, ổn định và phát triển của dân tộc. Nhà Lý – Trần áp dụng giáo dục Phật giáo như một công cụ hữu ích để giáo dục người dân làm điều thiện, qua đó xây dựng một xã hội thiện hòa. Chính chủ trương này đã mang lại hiệu quả cao trong xây dựng xã hội. Hơn nữa, một số lớn các nhà giáo dục là nhà sư, nên việc giáo dục của họ cũng gặp nhiều thuận lợi, nhất là với những người có niềm tin vào Phật giáo. Đồng thời, Phật giáo cũng khuyên con người tự làm chủ suy nghĩ và hành vi của mình. Xét ở góc độ nhân sinh, đây là yếu tố tự làm chủ bản thân. Khi đã nhận thức sâu sắc về nhân quả, mỗi người nên suy nghĩ nhiều hơn đến những hành động của mình sao cho hậu quả của nó không có hại cho bản thân, gia đình, xã hội và dân tộc, như lời Phật dạy: “Phàm làm việc gì phải nghĩ đến hậu quả của nó”.
Ngày nay, những giá trị đạo đức của dân tộc và Phật giáo thông qua như: mười điều thiện, nhân quả, tương thân tương ái v.v… ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp trong đời sống của quần chúng nhân dân. Người theo Phật hay không cũng hiểu rõ những việc làm sai trái ắt phải nhận lấy hậu quả. Như Trần Bạch Đằng viết: “Cái sống đời đời trong đạo đức Phật giáo là từ bi, là cứu khổ, cứu nạn. Nó vượt thời gian, không gian, bởi nó nhằm bảo vệ, phát huy, duy trì nhân bản “làm điều lành”, “hướng về điều lành” hoặc ít nhất “dừng làm ác”, “dừng hướng về cái ác” . Như vậy, Phật giáo đã góp phần giáo dục con người về lẽ sống, tuy mộc mạc nhưng rất cụ thể và sâu sắc. Tiếp nối truyền thống đạo đức cao đẹp đó, dân tộc ta nói chung và Phật giáo nói riêng vẫn tiếp tục thực hiện xây dựng đạo đức cho xã hội, đó là một phần quan trọng trong việc xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước.
Năm là, hạn chế những mặt tiêu cực và nhận diện rõ âm mưu lợi dụng tôn giáo, tín ngưỡng hiện nay.
Ngày nay, tệ nạn mê tín và dị đoan đã ký sinh vào các lễ hội cũng như những sinh hoạt tôn giáo. Mê tín là một tệ nạn của xã hội vì nó thường kéo theo những hoạt động gây lãng phí về tiền của, thời gian như bói toán, đồng bóng… và thậm chí là sinh mạng con người như bệnh không cần chữa, chỉ uống “nước thánh” là khỏi v.v… Mê tín thường đi đôi với nghèo khổ, túng thiếu, bệnh tật gây mất niềm tin vào cuộc sống thực tại vì người ta tin tưởng và phó thác cuộc sống và sinh mạng của mình vào một thế lực siêu nhiên mơ hồ nào đó. Nhu cầu đời sống tâm linh là một hiện thực, nhưng nhu cầu đó đã bị những người mê tín lợi dụng tôn giáo để hoạt động. Mê tín biểu hiện qua nhiều lãnh vực nhưng tựu trung, có nguồn gốc từ sự bất lực của loài người trước tự nhiên. Dù không dựa trên một cơ sở khoa học nào, nhưng ảnh hưởng của mê tín là vô cùng lớn trên phạm vi toàn cầu như việc dự báo năm 2000 là ngày tận thế của cả loài người, gây hoang mang và sợ hãi trong quần chúng nhân dân trên khắp hành tinh. Ngoài ra, trong xu thế hội nhập hiện nay, chúng ta cần phải nhận diện và xác định rõ đâu là hợp tác quốc tế, đâu là âm mưu xâm lược thông qua “diễn biến hoà bình”. Đặc biệt các âm mưu thông qua tôn giáo. Nhận diện rõ âm mưu của một số phần tử cực đoan, cuồng tín, lợi dụng các thế lực tôn giáo và chính trị bên ngoài để phục vụ mưu đồ bành trướng tôn giáo, chính trị, ngược lại với nguyện vọng lý tưởng truyền thống của dân tộc ta. Những năm gần đây, các hoạt động tôn giáo được cởi mở về tự do tín ngưỡng, nhưng trong đó có một bộ phận nhỏ đã lợi dụng hoạt động tôn giáo để làm mất trật tự xã hội, dẫn đến phương hại nền độc lập dân tộc, và phá hoại chính sách đoàn kết toàn dân, đi ngược lại nguyện vọng của nhân dân ta, gây ảnh hưởng đến các giá trị đạo đức, lối sống, văn hóa của dân tộc. Như văn kiện Đại hội Đảng viết: “khuyến khích ý tưởng công bằng, bác ái, hướng thiện… trong tôn giáo, đồng thời tuyên truyền giáo dục khắc phục tệ mê tín dị đoan, chống việc lợi dụng tôn giáo, tín ngưỡng thực hiện ý đồ chính trị xấu” .
Như vậy, có thể kết luận hiện tượng mê tín dị đoan luôn kéo theo nó những hậu quả không thể lường trước. Nó là một trong những trở lực cho sự phát triển và văn minh của xã hội. Để giải quyết tệ nạn này, chúng ta cần phải chặn đứng và nghiêm khắc xử lý những hành vi cuồng tín, mê tín đã lợi dụng hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng để trục lợi bất chánh, cần tuyên truyền và giáo dục kiến thức khoa học và nhân văn để từng bước nâng cao dân trí, giúp người dân nhận ra đâu là giá trị thực của tín ngưỡng, đâu là mặt trái của niềm tin mù quáng.
Những bài học nêu trên sẽ là góp phần xây dựng đất nước ta phát triển bền vững trong bối cảnh hiện nay.
0 Bình luận